Có lẽ, không có gì phân biệt loài người với phần còn lại của vương quốc động vật hơn ý tưởng về bản sắc cá nhân được thể hiện qua việc đặt tên. Đồng thời, có thể cho rằng, với lý do chính đáng: ngôn ngữ của con người là tiền đề cơ bản cho việc này.
Điều đó không có nghĩa là các loài khác không tự ý thức được bản thân và thậm chí, chúng có thể có một hình thức nhận biết bản thân nào đó (bất kỳ ai sống với một chú chó hoặc bé mèo dễ thương sẽ xác nhận điều này).
Thực tế, trong trường hợp của các loài động vật có vú sống dưới nước (như cá voi và cá heo), một số người ủng hộ đã cho rằng chúng có ngôn ngữ và thậm chí tự đặt tên cho mình, nhưng đề xuất này vẫn còn gây tranh cãi và chưa được chấp nhận rộng rãi.
Tương tự, trong môi trường phòng thí nghiệm có kiểm soát (controlled laboratory environment), loài khỉ lớn, như tinh tinh và gorilla, đã được dạy thành công Ngôn ngữ Ký hiệu Mỹ (Amercian Sign Language) cũng như các loại ký hiệu khác, có vẻ như cho thấy khả năng học ngôn ngữ tự nhiên (thường tương tự với độ phức tạp có khả năng là xấp xỉ một đứa trẻ hai tuổi). Hơn nữa, có thể là một hình thức của hành vi này cũng đã xuất hiện trong tự nhiên và do đó có giá trị tồn tại cho loài vật.
Tuy nhiên, mặc dù các loài khỉ thể hiện các cấu trúc xã hội phức tạp rõ ràng nhận ra cá thể và thậm chí thể hiện văn hóa sơ khai (như được thể hiện trong công việc tiên phong của Tiến sĩ Jane Goodall và những người khác), vẫn không có bằng chứng nào cho thấy chúng sử dụng tên giống như con người.
Do đó, có vẻ như an toàn để kết luận rằng:
Thói quen đặt tên là hiện tượng độc đáo của riêng loài người và có thể đã xuất hiện vào thời kỳ tiền sử xa xôi cùng với khả năng sử dụng ngôn ngữ phức tạp.
Đồng thời, với việc nghiên cứu chính thức về tên và thực hành đặt tên được gọi là onomastics (hoặc onomatology), nó nên được coi là một nhánh chuyên môn của nhân loại học và ngôn ngữ học. Cụ thể hơn thì anthroponomastics liên quan đến tên cá nhân và toponomastics liên quan đến tên địa điểm.
Tên cá nhân
Rõ ràng, trong ý nghĩa cơ bản nhất, tên riêng (personal name) chỉ là một biểu tượng ngôn ngữ trừu tượng cho cá nhân một người. Hơn nữa, khi sinh ra, trẻ sơ sinh không thể tự chọn tên cho mình, do đó, một người lớn tuổi khác phải đặt tên khi bé ra đời. Do đó, có vẻ tự nhiên và, có thể không cần phải nghi ngờ gì nữa, rằng điều này sẽ được thực hiện trong đại đa số các xã hội loài người bởi một trong hai: cha hoặc mẹ của đứa trẻ. Ngoài ra, một người thân khác hoặc một người lãnh đạo dòng họ (clan leader / tộc trưởng) cũng có thể có trách nhiệm chính thức này.
Trong mọi trường hợp, có vẻ hợp lý khi cho rằng: Ngoài việc là một biểu tượng đơn giản, tên được chọn sẽ có ý nghĩa quan trọng, có thể phục vụ một số mục đích nhất định, tức là để cầu xin phước lành từ các thế lực siêu nhiên, để xác định cá nhân mới với tổ tiên, để mô tả một đặc tính nào đó của đứa trẻ, để đánh dấu một sự kiện liên quan đến việc sinh của đứa trẻ, v.v.
Tất nhiên, trước khi ngôn ngữ viết ra đời, tên cá nhân chỉ được nói và, do đó, có thể được chọn chỉ vì âm điệu. Thực tế, việc chọn tên là rất cá nhân và, do đó, không thể phân loại đơn giản được. Hơn nữa, có vẻ như ngược lại với các xã hội phương Tây hiện đại trong đó với rất ít ngoại lệ, tên khi sinh sẽ được giữ nguyên trong suốt cuộc đời của một cá nhân, trong các nền văn hóa truyền thống (cổ xưa) hơn, một người thường có thể thay đổi tên ở các giai đoạn khác nhau của cuộc sống.
Những phong tục như vậy đã được thấy phổ biến trong quần thể người Mỹ bản địa vào thời điểm người châu Âu định cư và vẫn tồn tại trong các nền văn hóa bản địa khác ngay tại thời điểm hiện tại. Một khía cạnh khác của tên cá nhân trong những xã hội như vậy là sức mạnh biểu tượng (vật tổ, tô-tem) của nó, tức là, người nào gọi tên một người khác có thể kiếm được một loại “quyền lực” nào đấy trên người đó, tức là, dưới hình thức của ma thuật đồng cảm (sympathetic magic).
Rõ ràng, để phủ nhận quyền lực như vậy từ kẻ thù của con người hoặc thậm chí là các linh hồn xấu xa, một người sẽ mong muốn giữ “tên thật” của mình bí mật. Do đó, một người sẽ có biệt danh (nickname) hoặc “tên công khai” khác biệt với bất kỳ tên thật bí mật nào. Thực tế, những phong tục như vậy đã được thực hành vào các thời điểm và nơi khác nhau trong số các nhóm xã hội và dân tộc khác nhau.
Khi chữ viết xuất hiện, các hồ sơ dân sự bắt đầu được lưu giữ và các phần lịch sử chính thức được soạn thảo, điều này sẽ trở nên rất rối rắm và phức tạp nếu tên riêng thay đổi thường xuyên. Do đó, có thể tên riêng có xu hướng trở nên cố định khi ngôn ngữ viết xuất hiện, như hiện tại chúng ta thấy. Thực tế, điều này dường như đúng với đa số nếu không phải tất cả các nền văn hóa sử dụng chữ viết. Tuy vậy, thực hành đặt tên là (và vẫn đang) rất thay đổi và không thể dễ dàng tổng quát hóa (generalization). Trong mọi trường hợp, trong thời kỳ tiền sử và cổ đại, cũng như thời kỳ tiền trung cổ, một tên đơn (mononym), tức là một tên riêng (proper name), có thể đủ cho tất cả trừ những thành viên quan trọng nhất trong xã hội. Tên này có thể được chọn vì nhiều lý do như đã nêu ở trên. Đồng thời, trong thời kỳ Kitô giáo (Christian era), đã trở thành thông lệ khi tên riêng được đặt vào lúc rửa tội, sau đó sẽ là tên Kitô giáo (Christian name) của một người. Theo cách tự nhiên, những tên này thường được chọn từ các thánh đã được phong thánh hoặc các thiên thần linh thiêng (trong đó chỉ có ba tên được đặt trong Kinh Thánh, tức là, Michael, Gabriel và Raphael) và được đặt cho cả nam lẫn nữ.
Tất nhiên, mục đích cơ bản của tên Kitô giáo là để xác định một cá nhân là một tín đồ của Kitô giáo và theo một cách mở rộng là một thành viên của giáo hội Kitô (universal church). Hơn nữa, trong một số cộng đồng dân tộc, tên gọi và tên Kitô giáo có thể giống nhau, nhưng trong những cộng đồng khác, chúng có thể khác nhau. Tương tự, những người trở thành thành viên của các cộng đồng tu viện thường lấy tên khác để biểu thị rằng họ đã rời bỏ cuộc sống cũ của mình.
Thực hành (tục lệ) đặt tên của người La Mã
Người La Mã đã tạo ra một hệ thống đặt tên bao gồm sự kết hợp của tên riêng (personal names) và tên họ (family names). Do đó, các nhà ngữ văn La Mã coi sự kết hợp của praenomen, nomen và cognomen là các yếu tố thiết yếu của một tên La Mã và đặt tên hình thức này là tria nomina (ba tên). Theo lịch sử, quy ước đặt tên La Mã không cố định, nhưng phát triển từ thế kỷ thứ bảy trước Công nguyên và tiếp tục cho đến cuối thế kỷ thứ bảy sau Công nguyên. Tuy nhiên, mặc dù việc sử dụng quy ước đặt tên La Mã rõ ràng đã biến mất trong thời kỳ tiền Trung cổ (early Middle Ages), nhưng chúng đã ảnh hưởng đáng kể đến các quy ước đặt tên ở châu Âu sau này, nhiều trong số đó vẫn còn tồn tại trong các thực hành văn hóa hiện đại. Hơn nữa, tên được đặt theo hệ thống La Mã có thể được coi là một đặc trưng phân biệt của nền văn minh La Mã.
Như có thể mong đợi, yếu tố quan trọng nhất của tria nomina là nomen gentilicium, tức là, nomen, đó là một tên có tính kế thừa (nói cách khác đó là họ / surname của một người) xác định một người là thành viên của một gens riêng biệt, tức là, gia đình, bộ lạc, hoặc bộ tộc, tạo thành một gia đình La Mã mở rộng, tất cả thành viên của nó đều chia sẻ cùng một nomen và khẳng định là con cháu của một tổ tiên chung.
Đặc biệt trong thời kỳ đầu Cộng hòa [The Early Roman Republic / 510 – 124 BC], gens thực hiện các nghi lễ thiêng liêng của riêng mình và thiết lập các luật riêng, đều ràng buộc tất cả các thành viên, mặc dù không ràng buộc cả cộng đồng La Mã. Trong hình thức viết, nomen thường được theo sau bởi một filiation (hoặc tên cha / patronymic), được lấy từ tên riêng của cha của một cá nhân cụ thể (hoặc hiếm hơn, tên của mẹ (matronymic) hoặc các tổ tiên khác). Nomen được đặt trước bởi praenomen, tức là tên chính (forename / first name), đó là một tên riêng phân biệt giữa các thành viên khác nhau của cùng một gia đình.
Praenomen được chọn bởi cha mẹ của đứa trẻ và được trao vào ngày dies lustricius (hoặc “ngày lustration”), một nghi lễ thanh tẩy được thực hiện vào ngày thứ tám sau khi sinh nếu đó là bé gái hoặc ngày thứ chín sau khi sinh nếu đó là bé trai. Nói chung, tất cả các đứa trẻ trong một gia đình sẽ có các praenomina khác nhau và mặc dù không có luật nào hạn chế việc sử dụng praenomina cụ thể, sự lựa chọn thường được xác định bởi thông lệ và truyền thống gia đình.
Thông thường, con trai trưởng được đặt tên theo cha mình và các con trai sau đó được đặt tên theo các anh em của cha hoặc các tổ tiên nam đáng kính khác. Do đó, cùng một praenomina được truyền từ một thế hệ này sang thế hệ khác trong một gia đình. Điều này không chỉ nhấn mạnh sự liên tục của một gia đình qua nhiều thế hệ, mà việc lựa chọn praenomina cũng phân biệt các phong tục của một gens này với một gens khác. Thực tế, các gentes quý tộc hạn chế việc sử dụng praenomina nhiều hơn so với dân thường, điều này củng cố sự độc quyền của tình trạng xã hội quý tộc.
Tuy nhiên, mặc dù tria nomina được công nhận trong hầu hết lịch sử La Mã, việc sử dụng có thay đổi và không phải lúc nào cũng cần hoặc sử dụng tất cả ba tên. Thực tế, trong thời kỳ Cộng hòa La Mã (Roman Republic), chỉ cần hai yếu tố thiết yếu của một tên, tức là, praenomen và nomen. Tuy nhiên, cognomen xuất hiện lần đầu tiên trong tầng lớp quý tộc La Mã vào thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên, tức là, ngay từ khi Cộng hòa bắt đầu, nhưng không được sử dụng rộng rãi trong nhóm dân thường cho đến thế kỷ thứ hai trước Công nguyên.
Ngay cả khi đó, không phải tất cả công dân La Mã đều có cognomina và cho đến giai đoạn sau này của thời Cộng hòa, cognomen được coi là ít quan trọng và không chính thức. Trong bối cảnh này, trong thời kỳ sau của Cộng hòa La Mã, praenomen và nomen thường được theo sau bởi tên của bộ tộc bỏ phiếu của một công dân (như một loại cognomen / biệt hiệu). Thêm vào đó, cognomina có thể là cá nhân hoặc kế thừa, hoặc kết hợp cả hai. Do đó, tria nomina thường được mở rộng để bao gồm bốn hoặc nhiều tên, ví dụ, “Quintus Fabius Maximus Verrucosus Cunctator”, người vào thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, là một chính trị gia và tướng lĩnh La Mã nổi tiếng. Ngược lại, trong thời Đế chế (Empire), cognomen trở thành tên phân biệt chính và mặc dù praenomina không bao giờ hoàn toàn biến mất, các yếu tố thiết yếu của một tên La Mã từ thế kỷ thứ hai sau Công nguyên trở đi là nomen và cognomen.
Hơn nữa, trong thời kỳ sau này của Đế chế, các cá nhân quý tộc sử dụng nhiều phương thức khác nhau để thừa nhận hoặc kế thừa nomina và cognomina, cả để biểu thị cấp bậc và để chỉ ra các mối quan hệ gia đình và xã hội. Do đó, một số người La Mã được biết đến bằng các tên thay thế hoặc signia, nhưng vào thời điểm này, tên đầy đủ của hầu hết người La Mã, ngay cả trong tầng lớp quý tộc, ít khi được ghi lại. Vì nhiều lý do, hệ thống đặt tên La Mã suy thoái sau khi Đế chế phương Tây (Western Empire) sụp đổ. Praenomen đã trở nên hiếm hoi trong các nguồn văn bản vào thế kỷ thứ tư và vào thế kỷ thứ năm, nó chỉ được giữ lại bởi những phần tử bảo thủ nhất của tầng lớp quý tộc La Mã cũ. Trong thế kỷ thứ sáu, khi các cơ sở và cấu trúc xã hội La Mã dần biến mất, việc phân biệt giữa nomina và cognomina trở nên không cần thiết và vào cuối thế kỷ thứ bảy, đa số người ở Ý và Tây Âu (western Europe) đã trở lại tục lệ cổ xưa của tên đơn. Tuy nhiên, nhiều tên đơn này xuất phát từ việc điều chỉnh tên La Mã và, như vậy, đã tồn tại đến thời hiện đại.
Tất nhiên, xã hội La Mã cổ đại cực kỳ gia trưởng (phụ hệ) và quy tắc đặt tên chủ yếu dành cho nam giới. Tuy nhiên, lúc ban đầu, phụ nữ La Mã cũng sử dụng cùng một quy tắc đặt tên hai tên như nam giới; nhưng theo thời gian, praenomen trở nên ít cần thiết để phân biệt phụ nữ; do đó, praenomen ở nữ giới dần bị loại bỏ hoặc thay thế bằng tên không chính thức (informal names). Vì thế, vào cuối thời Cộng hòa, hầu hết phụ nữ La Mã không có hoặc không sử dụng praenomen và được gọi bằng nomen duy nhất hoặc sự kết hợp của nomen và cognomen. Praenomen vẫn có thể được đặt khi cần thiết và giống như praenomen nam giới, thực hành (tục lệ) này tồn tại đến thời Đế chế, nhưng sự gia tăng của cognomen cá nhân cuối cùng đã làm cho praenomen nữ giới hoàn toàn lỗi thời. Vì vậy, giai đoạn mà hầu hết công dân La Mã được chỉ định bằng đúng ba tên khá ngắn; tuy nhiên, vì hầu hết những người quan trọng sống trong giai đoạn lịch sử La Mã được ghi chép đầy đủ nhất, tức là, thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên và thế kỷ thứ nhất và thứ hai sau Công nguyên, được phân biệt bằng tất cả ba tên, tria nomina vẫn là khái niệm phổ biến nhất về tên La Mã. Do đó, trong xã hội phương Tây hiện đại, tên cá nhân (thường là tên đầu tiên / first names) như chúng hiện tại, dường như xuất phát từ praenomen trong hệ thống đặt tên của La Mã cổ đại. Tương tự như vậy, họ (surename) có thể được coi là sự thích nghi hiện đại của nomen. Không có tương đương chính xác của cognomen, nhưng biệt danh (nickname) có vẻ gần nhất. Tên đệm (middle name) hiện đại rõ ràng không có tương đương trong hệ thông đặt tên La Mã, trừ khi nó được sử dụng thay cho tên đầu tiên là tên gọi chính của một cá nhân, trong trường hợp đó nó có thể được coi là tương ứng với praenomen.
Họ hiện đại
Như đã chỉ ra ở trên, vào thời kỳ trung cổ, hầu hết mọi người ở châu Âu chỉ được xác định đơn giản bằng một tên riêng bao gồm một từ duy nhất / mononym or single proper name (các ngoại lệ chỉ xuất hiện ở giới quý tộc). Tuy nhiên, vào thời kỳ cuối Trung cổ, việc phân biệt những người có cùng tên riêng bằng một loại tên không chính thức, không kế thừa nào đó hoặc biệt danh trở nên cần thiết.
Những tên này được thêm vào tên chính, do đó, giống như một cognomen La Mã, và thường có bốn loại khác nhau, tức là, tên theo cha (patronymics) hoặc mẹ (matronymics), địa điểm, nghề nghiệp hoặc xã hội, và đặc điểm. Cả bốn loại này đều tồn tại trong hầu hết mọi ngôn ngữ châu Âu, nhưng tần suất và cấu trúc ngữ pháp rất biến đổi. Hơn nữa, để đơn giản, trong phần này chúng ta chỉ xem xét việc tạo ra các biệt danh tiếng Anh, nhưng các quy ước tương tự cũng áp dụng cho các ngôn ngữ châu Âu khác.
Tất nhiên, một tên theo cha (patronymic) xác định một cá nhân là con trai (hoặc con gái) của một người cha cụ thể. Hiếm hơn, một tên theo mẹ (matronymics) xác định một cá nhân là con trai (hoặc con gái) của một người mẹ cụ thể. Như có thể dự đoán, việc đặt tên theo cha phổ biến hơn nhiều so với việc đặt tên theo mẹ và là một thực hành (tục lệ) rất cổ xưa. Theo đó, có ba hình thức chính của tên theo cha trong tiếng Anh. Tất nhiên, hình thức tiếng Anh sớm nhất và đơn giản nhất là tên theo cha dạng unmarked, chỉ cần thêm tên của cha vào tên chính của đứa trẻ, ví dụ, vào năm 1209, người ta tìm thấy “Geoffrey Anketil” được xác định là “con của Anketil”. Sau đó, các hình thức tên theo cha dạng marked xuất hiện, một trong số đó, tương tự như hình thức sở hữu, chỉ cần thêm “s” hoặc “es” vào tên chính của cha, ví dụ, vào năm 1327, “Thomas Richardes” nghĩa đen là “Thomas của Richard”; và một cái tên thêm “son / nghĩa là con trai” vào tên của cha, ví dụ, vào năm 1324, “Robert Willeson” tương ứng với “con trai của Will(e)”. Rõ ràng, hai hình thức marked này đi vào tiếng Anh hiện đại dưới dạng “Richards” và “Wilson”. Hơn nữa, hình thức thứ ba thường được xây dựng (như trong ví dụ này) bằng cách sử dụng một hình thức rút gọn của một tên phổ biến trong thời Trung cổ và không sử dụng hình thức đầy đủ tương ứng, có lẽ, xuất phát từ tiếng Anh cổ.
Rõ ràng, một biệt danh dạng địa điểm (locative byname) xác định một cá nhân bằng nơi người đó sống, làm việc, hoặc sinh ra. Do đó, các hình thức địa điểm có thể được phân loại thành hai danh mục, tức là, toponymic và topographic. Trong số hai cái này, một biệt danh toponymic bắt nguồn từ một địa điểm có tên, có thể là một làng, thị trấn, quận, hoặc thậm chí một đặc điểm tự nhiên có tên và, do đó, hình thức toponymic luôn kết hợp với một danh từ riêng. Trong tiếng Anh Trung cổ (chịu ảnh hưởng nặng nề bởi tiếng Pháp sau Cuộc chinh phục của Norman), hình thức này thường xuất hiện với một tên địa điểm, và được đặt sau giới từ tiếng Pháp “de”, tương đương với nghĩa tiếng Anh “of” hoặc “from”. Do đó, người ta tìm thấy các ví dụ như “de Brunnesley” vào năm 1198 và “de York” vào năm 1324. Tất nhiên, biệt danh toponymic cũng có thể chỉ đến một quốc gia, vương quốc, tỉnh, v.v. Vì những khu vực dân sự lớn này, một biệt danh toponymic bắt nguồn từ một nơi như vậy, ví dụ, Wales, sẽ không hiệu quả để phân biệt một cá nhân thực sự vẫn sống trong khu vực ấy. Do đó, loại biệt danh toponymic này xuất hiện để xác định những cá nhân đã di chuyển một khoảng cách đáng kể từ nơi cư trú gốc của họ (có lẽ, đến một vương quốc hoặc tỉnh khác). Thực tế, biệt danh “Simon de Welsche” sẽ không phân biệt đủ tốt một “Simon của Wales” thực sự đang sống ở Wales, nhưng nếu người đó ở Bedfordshire, nơi người Wales không phổ biến, nó có thể đủ dùng (để phân biệt với những người khác).
Sau đó, vào thế kỷ thứ mười lăm, việc sử dụng hình thức giới từ trở nên lỗi thời và giới từ đơn giản biến mất. (Tuy nhiên, các hình thức không có giới từ có thể được tìm thấy trong các hồ sơ trước đó như “Richard Wangeford” vào năm 1296.) Ngược lại, các biệt danh topographic không bao gồm danh từ riêng và được tạo ra như một mô tả ngắn gọn về một nơi nào đó hoặc đặc điểm địa lý tự nhiên. Do đó, một biệt danh topographic có thể được coi là một loại địa chỉ nguyên thủy. Hình thức này cũng bao gồm việc sử dụng một giới từ, nhưng là tiếng Anh thay vì tiếng Pháp, và giới từ phổ biến nhất là “at”, và thường được kết hợp với mạo từ “the” như trong “atte” nghĩa đen là “‘at the” (hoặc một biến thể nhỏ). Các ví dụ điển hình được tìm thấy như “Attemille” vào năm 1242, nghĩa đen là “ở cối xay / at the mill”; tương tự vào năm 1243 “Attewode” có thể được hiểu là “ở rừng / at the wood”. Tất nhiên, các giới từ khác cũng xuất hiện, ví dụ, vào năm 1194 “Vnderegge” nghĩa là “dưới mép / under edge”, do đó, chỉ người sống ở chân một vách đá. Tương tự, “Overthebek” rõ ràng được hiểu là “qua dòng suối / over the beck”, tức là, một dòng suối hoặc dòng chảy; vào năm 1243, “Bithewaye” nghĩa là “bên đường / by the way”, chỉ người sống bên cạnh con đường; và vào năm 1333, “Theffelde”, rõ ràng, có nghĩa là “trong cánh đồng / in the field”. Tất cả những điều này cung cấp những ví dụ tốt về biệt danh topographic. Hơn nữa, có lẽ giới từ ít phổ biến nhất được sử dụng là “of’, nhưng mặc dù nó xuất hiện hiếm, vào năm 1327 một ví dụ được cung cấp bởi “Othe felde” mà, tất nhiên, có nghĩa là “của cánh đồng”. Như có thể dự đoán, trong các thế kỷ sau năm 1400, giới từ (và mạo từ, nếu có) cuối cùng bị mất. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, chúng vẫn tồn tại và trở nên gắn kết với danh từ, như trong các họ hiện đại, “Atwood”, “Atwater”, và “Underhill”, cùng với nhiều tên khác.
Theo cách tự nhiên, các biệt danh nghề nghiệp và xã hội xác định một người thông qua công việc hoặc tình trạng xã hội của họ (những điều này trong thời Trung cổ thường có gắn kết chặt chẽ, giống như hệ thống đẳng cấp Ấn Độ vẫn tồn tại đến ngày nay vậy). Một ví dụ rõ ràng được minh họa là tên “John Smith”, thường đề cập đến một người có tên John làm nghề thợ rèn (mặc dù các loại thợ rèn khác cũng có thể được ngụ ý, ví dụ, một thợ rèn vàng, thợ rèn bạc, v.v.; tuy nhiên, trong những trường hợp đấy, tên gọi nghề nghiệp đầy đủ thường xuất hiện, ví dụ, “John Goldsmith”). Lại một lần nữa, trước thế kỷ thứ mười lăm, các biệt danh nghề nghiệp thường được tìm thấy trong ngôn ngữ viết đi trước một mục từ tiếng Pháp, ví dụ, “le” (nam) hoặc “la” (nữ), nhưng điều này có thể không đại diện cho ngôn ngữ nói. Các ví dụ điển hình được cung cấp bởi: “le Bakere”, vào năm 1177, tất nhiên, đề cập đến một người phụ nữ là “người làm bánh / the baker”; “la Lauendere”, vào năm 1253 đề cập đến một người phụ nữ là “người giặt đồ / the laundress”; vào năm 1275, “le Fithelare”, đúng nghĩa đen đề cập đến một người đàn ông là “người chơi đàn violin / the fiddler”; và vào năm 1279, “le Horsmongere”, rõ ràng đề cập đến một người đàn ông là “người buôn ngựa / the horse-dealer”. Các biệt danh đề cập đến cấp bậc và tình trạng xã hội cũng xuất hiện với một mục từ, chẳng hạn như vào năm 1221, ‘le Freman”, hoặc “người tự do”; và vào năm 1255, “le Erl”, hoặc “công tước”. Dù vậy, mục từ không luôn xuất hiện ngay cả trong các bản ghi sớm; do đó, người ta tìm thấy “Henry Pope” vào năm 1296 và trong thế kỷ thứ mười ba, một số người được tìm thấy với biệt danh “Kyng”. Đồng thời, các biệt danh địa phương và xã hội chồng chéo trong các tên dân tộc. Trong trường hợp này, một cá nhân được xác định bằng quốc tịch, tôn giáo hoặc dân tộc. Hơn nữa, cần lưu ý rằng trong thời Trung cổ, các nhóm quốc gia có thể được liên kết với các khu vực địa lý nhỏ hơn nhiều so với các quốc gia hiện đại. Do đó, vào năm 1230 “le Bret” đề cập đến một người Breton hoặc người Briton từ Brittany ở phía tây bắc Pháp. Tương tự, vào năm 1276, “le Pycard” đề cập đến một người đàn ông từ Picardy ở phía tây bắc Pháp.
Loại tên gọi không chính thức thứ tư được gọi là biệt danh theo đặc điểm riêng / characteristic byname (hoặc nickname) và như vậy, bao gồm tất cả các trường hợp không phù hợp với ba loại đầu tiên. Trong trường hợp này, việc sử dụng các mục từ tiếng Pháp là tùy ý và thưa thớt, nhưng dù sao, các mục từ về cơ bản biến mất sau năm 1400. Trong ngữ cảnh này, một số loại phụ của đặc điểm phổ biến có thể được xác định là chỉ đến các đặc điểm thể chất, tinh thần hoặc đạo đức của một cá nhân cụ thể. Thật vậy, mặc dù các biệt danh đặc điểm riêng thường xuất hiện dưới vai trò bổ sung, chúng có thể đã được dùng để châm biếm hoặc thậm chí là xúc phạm. Ví dụ, vào năm 1177, “Henry Bigge” có thể là một người đàn ông nhỏ con chứ không phải cao lớn. Một cách tự nhiên, những biệt danh phổ biến nhất thường rất đơn giản và cụ thể: vào năm 1203, “le Wis” được hiểu là “người khôn ngoan”; vào năm 1296, “le Reed” được hiểu là “người có mái tóc đỏ”. Một loại phụ khác phổ biến là biệt danh đại diện (metonymic byname), xác định công việc của một người bằng cách đặt tên theo công cụ được sử dụng hoặc sản phẩm được sản xuất hoặc bán. Do đó, vào năm 1296, “Thomas Mayle” có thể là người làm giáp và vào năm 1303, “Geoffrey wythe Hameres”, tức là, “với những cái búa”, rất có thể là người làm hoặc sử dụng búa (thay vì một người đàn ông sở hữu một số cái búa nổi bật).
Ngoài ra, tồn tại thêm các characteristic byname phức tạp hơn, mặc dù việc sử dụng chung thường ít hơn so với các hình thức đơn giản. Một số ví dụ tiếng Anh được tìm thấy, chẳng hạn, vào năm 1159, “Shirloc”, đúng nghĩa đen là “‘bright-lock”, tức là, “tóc vàng” (“Sherlock” trong cách sử dụng hiện đại); vào năm 1205, “de fer”, hoặc “iron-arm / cánh tay sắt”; vào năm 1209, “Yrento”, đúng nghĩa đen “iron-toe / ngón chân sắt”; vào năm 1212, “le Gode” hoặc “the good / người tốt”; vào năm 1219, “Cunteles” nghĩa là “cunt-less / không có âm đạo” và “le Gidye” nghĩa là “the mad / người điên” (trong tiếng Anh hiện đại, “giddy” có ý nghĩa yếu hơn nhiều); vào năm 1249, “le Lechur” nghĩa là “the lecher / người dâm dục”; vào năm 1251, “le Cruel”, rõ ràng là “the cruel / người tàn nhẫn”; vào năm 1275, “Wytelas” nghĩa là “witless / không có trí” và “le Wilfulle”, rõ ràng là “the willful / người cố chấp”; vào năm 1286, “Foulmouth”, nghĩa là hay nói tục; vào năm 1290-92, “le Long”, rõ ràng là “the long / người cao”; vào năm 1293, “le Oneyede” nghĩa là “the one-eyed / người một mắt”; vào năm 1297, “Wythe Berd” nghĩa là “with the beard / với râu” (thực sự bị đánh máy sai thành “Wychthe Berd”); vào năm 1327, “Wysheued” nghĩa là ‘wise-head / đầu óc sáng suốt’ và “Swetemouth” nghĩa là “sweet mouth / dẻo miệng”; vào năm 1375, “Notegood” nghĩa là “not good / không tốt”; vào năm 1379, “Smalbyhind” nghĩa là “small behind / mông nhỏ”.
Rõ ràng, như đã chỉ ra ở trên, một số biệt danh này là bổ sung và một số không phải là bổ sung. Các biệt danh đặc trưng tiếng Anh khác đề cập đến các món đồ mặc, ví dụ, vào năm 1297, “Wythemantel” nghĩa là “with the mantle / với áo choàng”; vào năm 1307, “Wytebelt” nghĩa là “white belt / dây lưng trắng”; vào năm 1312, “Scortmantil” nghĩa là “short mantle / áo choàng ngắn”. Một số trường hợp không rõ ràng và không dễ phân loại, chẳng hạn như vào năm 1225, “Gilbert Hodde” nghĩa là “mũ”, có thể là một biệt danh nghề nghiệp chỉ đến Gilbert là một “người làm mũ”, thay vì chỉ là một biệt danh chỉ đặc điểm riêng, “Gilbert với cái mũ”. Tương tự, vào năm 1297, “Robert Rotenheryng” nghĩa là “cá hồi thối”, rất có thể là người bán cá.
Các biệt danh khác không phù hợp với các loại phụ trước đó, chẳng hạn như vào năm 1327, một người đàn ông được gọi là “le Wyfles”, có lẽ không có vợ. Tương tự, các biệt danh có thể dường như ghi nhớ một sự kiện cụ thể, chẳng hạn như vào năm 1301, “Falinthewol” được hiểu là “rơi vào giếng”, mặc dù biệt danh cụ thể này được tìm thấy nhiều hơn dự kiến, điều này cho thấy rằng nó bắt nguồn từ một số cách diễn đạt phổ biến thời Trung cổ (hiện đã không còn sử dụng), có thể, chỉ đến một người mơ mộng hoặc một người rất vụng về. Tương tự, vào năm 1242, biệt danh khá khó hiểu “Latethewaterga” hoặc “để nước chảy”, là mơ hồ và cho phép nhiều giải thích phù hợp và tục tĩu, chẳng hạn như “người đi đái hoặc người đi tiểu” cũng như nhiều giải thích khác. Nói chung, những biệt danh phức tạp, khó hiểu này khá hiếm và thậm chí vắng mặt trong một số ngôn ngữ châu Âu. Đáng chú ý đặc biệt là các biệt danh tiếng Anh như “Shakespeare” rõ ràng là “rung giáo (mác)”, hoặc vào năm 1219, “Makepais” hoặc “make peace / làm hòa bình”; vào năm 1227 “Hakkeches” hoặc “hack cheese / chặt phô mai” chỉ đến một người bán phô mai; hoặc các tiểu loại mang tính miệt thị “tội phạm nhỏ” chẳng hạn như năm 1227, “Mangeharneis” được hiểu là “ăn áo giáp; vào năm 1246, “John Fillecunt” hoặc “điền vào âm đạo” (người có thể đã gặp khó khăn với “Bele Wydecunthe” hoặc “âm đạo rộng” vào năm 1327!); vào năm 1269, “Brekebac” hoặc “gãy lưng”; vào năm 1275, “cuttepurs” hoặc “cut purse / cắt túi” (hiện nay, cutpurse tương đương với một người giật túi) và “Badinteheved” hoặc “bad in the head / xấu trong đầu”; vào năm 1279 “Aydrunken” hoặc “always drunk / luôn luôn say”; vào năm 1327, “Strokelady” hoặc “stroke lady” và “Brekaldoun” hoặc “break all down / phá hủy tất cả” và “Gobytheweye” hoặc “go by the way / đi theo con đường”; vào năm 1334, ‘Brekelaunce” hoặc “break lance / gãy giáo”. Các loại cụm từ khác, đôi khi còn phức tạp hơn, cũng xuất hiện như biệt danh; do đó vào năm 1246 người ta tìm thấy, “Fayrarmful” hoặc “fair armful / vòng tay đẹp”; vào năm 1282, “Drink al up”, rõ ràng có nghĩa là “drink all up / uống hết”; vào năm 1301, “Haldebytheheved” được hiểu là “hold by the head / nắm bởi đầu” và “Fayrandgode” được hiểu là “fair (handsome) and good / đẹp (đẹp trai) và tốt”; vào năm 1302, “Potfulofale” hoặc “pot full of ale / nồi đầy bia”; vào năm 1309, “Singalday” hoặc “sing all day / hát cả ngày”; và vào năm 1211, “Elias Overandover” bí ẩn hoặc “over and over / lặp đi lặp lại”. Đồng thời, vào năm 1301 người ta tìm thấy cặp vợ chồng rõ ràng đã kết hôn, “Henry Lytilprud” hoặc “little worth / ít giá trị” và vợ anh ta “Hawisia Crist a pes” hoặc “Christ have peace / Christ có bình an’, có lẽ ghi lại một biểu hiện yêu thích của người phụ nữ chịu đựng lâu dài này.
Ở Anh, họ gia đình có tính kế thừa được áp dụng từ thế kỷ thứ mười ba và mười bốn, ban đầu chỉ bởi giới quý tộc, nhưng cuối cùng lan sang tất cả mọi tầng lớp. Đến năm 1400, nhiều người Anh và một số người Scotland đã sử dụng họ, nhưng nhiều người Scotland và Wales không nhận họ cho đến thế kỷ thứ mười bảy, hoặc thậm chí còn muộn hơn. Như có thể dự đoán, họ thường xuất phát từ biệt danh thời Trung cổ, được truyền qua các thế hệ liên tiếp, thay vì chỉ trên một cá nhân như ban đầu. Đến thế kỷ thứ mười sáu, vua Henry VIII (1491 – 1547) đã ra lệnh rằng việc sinh con trong hôn nhân phải được ghi theo họ của người cha.
Ở Anh và Đế chế Anh sau này, có một truyền thống quan trọng là một người phụ nữ nên thay đổi họ của mình sau khi kết hôn, từ họ thời con gái thành họ của chồng mình. Đồng thời, trường hợp đầu tiên được biết đến tại Hoa Kỳ, một người phụ nữ khăng khăng giữ lại họ của mình sau khi kết hôn là Lucy Stone vào năm 1855. Sau đó, thực hành này đã tăng lên và trở nên phổ biến hơn vào những năm 1960, 1970, và 1980, nhưng vẫn còn là một thực hành thiểu số (cũng như các họ ghép bằng dấu gạch nối (hyphenated surnames) bao gồm sự kết hợp của họ mẹ và họ cha được tách biệt bằng dấu gạch nối, họ kết hợp (blended surnames) trong đó các yếu tố của họ cha và họ mẹ được ghép thành một họ mới duy nhất, v.v.).
Hơn nữa, vào những năm 1990 đã có một sự suy giảm rõ rệt trong tỷ lệ giữ lại họ khi sinh của phụ nữ đã kết hôn. Tương ứng, vào thế kỷ hai mươi mốt, hơn 80% phụ nữ Mỹ vẫn nhận họ của chồng sau khi kết hôn. Trong bối cảnh này, thực hành đặt tên hiện đại của châu Âu và Mỹ rõ ràng đã phục hồi tria nomina của La Mã ở dạng biến thể của tên đầu, tên giữa, và họ. Tất nhiên, sự tương đồng không chính xác vì tên đầu và tên giữa thực sự phục vụ như là các prenomina trùng lặp và không có tương đương nào của cognomen thường được bao gồm. (Tất nhiên, nomen và họ vẫn cơ bản tương tự.)
Để hoàn chỉnh, có thể cần lưu ý rằng có một quốc gia châu Âu, cụ thể là Iceland, công dân ở đó chưa bao giờ chính thức nhận họ, nhưng giữ tên theo cha (patronymic). Ví dụ, nếu một người đàn ông tên Karl có một cô con gái tên Anna và một cậu con trai tên Magnús, tên đầy đủ của họ thông thường sẽ là “Anna Karlsdóttir”, tên này là con gái của Karl, và “Magnús Karlsson” là tên con trai của Karl. Tên nữ không được thay đổi khi kết hôn.
(Bài gốc: The Origin of Names, của tác giả David R. Evans)
Ghi chú: tài liệu dịch, có thể có bản quyền.