Chương 36: Tên cá nhân (Benjamin Blount) – Phần 2

Phần 1: hoten.org/ten-rieng-benjamin-blount-p1/

Phiên bản PDF có thể tải xuống cho cả hai phần: hoten.org/wp-content/uploads/2023/12/ten-ca-nhan.pdf

36.3.4 Nguồn gốc tôn giáo cho tên gọi cá nhân trong tiếng Anh

Tên gọi cá nhân xuất phát từ đâu? Phần lớn, các tên không được tạo mới (anew), mặc dù có ngoại lệ, như trong trường hợp của những cái tên người Mỹ gốc Phi mới. Thay vào đó, chúng được chọn từ kho dữ liệu văn hóa có sẵn. Tên người Iceland được lấy từ danh sách đã được thiết lập trước, nhưng những tên này vào một thời điểm nào đó trong lịch sử của họ đã được lấy từ các nguồn khác.

Nguồn cung cấp chính cho các tên gọi đầu tiên hay tên cá nhân trong tiếng Anh là Kinh Thánh. Lấy thông tin từ cuộc điều tra dân số Hoa Kỳ năm 2001 làm cơ sở, ba trong số mười tên nữ phổ biến nhất có nguồn gốc Kinh Thánh: Hannah (số 1), Sarah (3), và Elizabeth (10), cũng như sáu trong số mười tên nam phổ biến nhất: Michael (1), Jacob (2), Matthew (3), Joseph (6), Zachary (7), và Joshua (8); hai cái tên khác có nguồn gốc từ các nguồn tôn giáo muộn hơn về mặt lịch sử là Nicholas (4) và Christopher (5). Tỷ lệ phần trăm cao hơn của các tên nam có nguồn gốc Kinh Thánh cho thấy rằng tên nam phản ánh một tính bảo thủ lịch sử sâu rộng hơn so với tên nữ, nơi mà tính phổ biến dường như đóng vai trò quan trọng hơn. Bản ghi lịch sử xác nhận sự đối lập giữa bảo thủ và tính phổ biến thậm chí vượt ra khỏi các yếu tố tôn giáo. Bảng 36.1 cho thấy 10 cái tên đầu tiên phổ biến nhất dành cho nữ giới ở Hoa Kỳ theo từng khoảng thời gian 25-30 năm kể từ năm 1870 đến 2001.

10 tên nữ phổ biến ở Hoa Kỳ theo thời gian
Bảng 36.1

Tổng cộng có 37 tên khác nhau được tìm thấy trong danh sách. Chỉ có một, Elizabeth, xuất hiện năm trong số sáu danh sách. MaryCatherine/Katherine mỗi tên xuất hiện trong bốn danh sách, Margaret, Helen, Alice, RuthDorothy mỗi tên có mặt trong hai danh sách, và 29 tên còn lại chỉ xuất hiện một lần. Trong số 29 tên đó, có 19 tên xuất hiện trong ba khoảng thời gian cuối cùng. Chỉ có Elizabeth, MaryCatherine kéo dài qua khoảng thời gian 131 năm. Mô hình cho nam giới khác biệt, như được thể hiện trong Bảng 36.2.

10 tên nam phổ biến ở Hoa Kỳ theo thời gian
Bảng 36.2

Tổng cộng có 25 tên khác nhau xuất hiện. Hai tên, JohnJames, có mặt năm trong số sáu danh sách, William, Joseph, MichaelRobert có mặt trong bốn danh sách, GeorgeThomas được tìm thấy trong ba danh sách, Charles, ChristopherDavid có mặt trong hai danh sách và mười bốn tên chỉ xuất hiện một lần. Mười trong số 14 tên đó xuất hiện trong ba khoảng thời gian cuối cùng. So sánh các hồ sơ cho thấy rằng (1) có nhiều tên nữ khác nhau hơn so với tên nam; (2) cả tên nam và nữ đều cho thấy sự đa dạng hơn trong nửa thế kỷ qua so với thế kỷ trước; (3) có nhiều tên nam hơn so với tên nữ có nguồn gốc từ Kinh Thánh hoặc tôn giáo.

Bản ghi chi tiết hơn về các khoảng thời gian 25 năm được thể hiện trong Bảng 36.1 và 36.2 cho thấy rằng tên cá nhân có thể rất phổ biến trong vài năm rồi sau đó giảm từ vị trí cao xuống thấp hơn. Trang web của Cơ quan An sinh Xã hội Hoa Kỳ (US Social Security Administration) chứa danh sách năm tên hàng đầu cho tên nữ và nam trong 100 năm qua. Emily đã là tên hàng đầu cho nữ từ năm 1996 đến 2007, Jennifer dẫn đầu từ năm 1970 đến 1984, và Mary đứng đầu từ năm 1912 đến 1946 và một lần nữa từ năm 1953 đến 1961, sau khi đã bị Linda thay thế trong khoảng thời gian trước đó. Đối với nam giới, Jacob đã giữ vị trí số một từ năm 1999 đến 2012, và Michael giữ vị trí hàng đầu từ năm 1954 đến 1959 và một lần nữa từ năm 1961 đến 1998, với David dẫn đầu vào năm 1960. Thực tế là John, Robert, James, MichaelJacob cùng nhau giữ vị trí hàng đầu cho cả thế kỷ trừ David vào năm 1960. Điều này một lần nữa chứng minh sự bảo thủ trong việc chọn tên gọi nam và tầm quan trọng của nguồn gốc tôn giáo. Trong số các tên nữ giữ vị trí hàng đầu trong bốn năm qua—Mary, Jennifer, Emily, LisaLinda—Mary là cái tên duy nhất có nguồn gốc tôn giáo.

Tiếng Hebrew là nguồn gốc của nhiều tên gọi tôn giáo, tiếng Latin đứng hàng thứ hai. Mặc dù các mô hình lựa chọn cụ thể có thể khác nhau tại các khu vực nói tiếng Anh bản xứ ở Mỹ, Vương quốc Anh, Canada, Úc và New Zealand, nguồn gốc và các tên gọi là tương tự. Sự phân bổ ban đầu xuất phát, dĩ nhiên, từ Vương quốc Anh. Không gian {bài viết} không cho phép truy vết sự phân bổ và những khác biệt khu vực, nhưng điểm quan trọng là các tên gọi và mô hình của chúng rất cổ xưa, chứng minh cho sự ổn định của hệ thống đặt tên cá nhân qua các khu vực rộng lớn trên thế giới.

36.4 Họ trong tiếng Anh

Họ trong tiếng Anh được kế thừa, như đã được quy định bởi pháp luật. Chúng bắt nguồn từ đâu và khi nào chúng bắt đầu xuất hiện? Họ không tồn tại ở Anh trước năm 1100 sau Công Nguyên, nhưng dần dần xuất hiện trong vài thế kỷ tiếp theo, đặc biệt là từ năm 1250 đến 1450 (Bowman 1932; Redmonds 2002) và tiếp tục cho đến thế kỷ 18 (Smith-Bannister 1997). Trước khi họ xuất hiện, mọi người có tên gọi riêng {tên chính / first name}, nhiều trong số đó có nguồn gốc tôn giáo. Đa số mọi người sống ở vùng nông thôn và kiếm sống tại địa phương. Nếu cần phân biệt thêm, người ta có thể sử dụng tên dạng mô tả hoặc biệt danh, ví dụ có thể có các tên như John, rồi Big John (John bự con) hay thậm chí là cả Little John (John bé nhỏ). Nơi cư trú hoặc nguồn gốc cũng có thể được sử dụng, như Mary of Dover hay Elizabeth of Brighton. Tên của những cá nhân nổi tiếng và quyền lực đặc biệt phản ánh các đặc điểm cá nhân hoặc nguồn gốc của họ, như Richard the Lionhearted, William the Conqueror (Conqueror nghĩa là kẻ thắng trận, người chinh phục), Katherine of Aragon, hay Mary Queen of Scots (Queen nghĩa là nữ hoàng). Một khả năng khác là nghề nghiệp, ví dụ như Thomas the baker (baker nghĩa là thợ làm bánh) hay Emma the seamstress (seamstress có nghĩa là thợ may) (Dolan 1972).

Nguyên nhân khiến người Anh bắt đầu sử dụng họ có thể là do dân số tăng lên và nhu cầu phân biệt cư dân một cách rõ ràng hơn, nhưng khả năng cao hơn là do sự xuất hiện của thuế suất. Trước đây, thuế tài sản đã được yêu cầu như là các khoản thanh toán cho chính phủ, nhưng nhu cầu về thuế khác đã dẫn đến việc áp đặt thuế suất lên cá nhân. Khi cá nhân cần phải nộp thuế, một phương pháp tốt hơn để phân biệt người dân cho việc ghi chép văn bản trở nên cần thiết, và việc giới thiệu họ là một bước đi lô-gic (hợp lý). Các loại thuế suất quan trọng của Anh đã được đánh vào các năm 1377, 1379 và 1381 (Fenwick 1998), mặc dù thuế đã được áp đặt từ hơn 100 năm trước đó. Họ được tạo ra chủ yếu bằng cách chính thức hóa các tên gọi và tên chính có tính miêu tả (Reaney 1991). Vì vậy, Mary of Dover sẽ trở thành Mary Dover, và Thomas the baker sẽ trở thành Thomas Baker.

Phần lớn họ được tạo ra từ một trong bốn nguồn. Đầu tiên là từ họ thuộc dạng patronymic, bao gồm tên của người cha cộng với hậu tố hoặc tiền tố để biểu thị địa vị họ. Ở Anh, từ này thường có dạng hậu tố -son cộng với tên của người cha để đặt cho Johnson, Watson, Wilson, Danielson, v.v. Tuy nhiên, hệ thống này không tạo ra một hệ thống patronymic. Khi một cái tên như Robertson được tạo ra, nó trở thành họ, và con cái của thế hệ đó và các thế hệ tiếp theo đều có họ Robertson. Không phải tất cả các tên dạng patronymic đều có hậu tố -son; tên của người cha có thể được sử dụng mà không cần sửa đổi hoặc có thể có hậu tố -s để tạo ra Richards hoặc Collins. Cách phổ biến thứ hai để tạo họ là sử dụng nghề nghiệp hoặc chức danh của một người làm họ, phương pháp đó tạo ra Smith (thợ rèn), Cook (đầu bếp), Wainwright (thợ làm thùng) và Chapman (chủ cửa hàng). Loại họ thứ ba mang tính địa hình và bắt nguồn từ địa điểm hoặc loại địa điểm nơi một người cư trú. Matthew sống bên sông sẽ trở thành Matthew River, Anna sống trên đồi sẽ trở thành Anna Hill. Barbara sống ở Eaton sẽ trở thành Barbara Eaton. Loại thứ tư xuất phát từ những mô tả về các đặc điểm hành vi hoặc thể chất được sử dụng làm tính từ để phân biệt con người. Vì vậy, White (Trắng), Good (Tốt), Long (Dài), Meek (Nhu mì) và Wise (Khôn ngoan), cùng nhiều tên khác, đã trở thành họ.

Họ đã xuất hiện để phân biệt rõ ràng người mang nó, và chúng đóng vai trò tốt trong việc này. Tuy nhiên, quan niệm phổ biến là tên gọi của một người có vai trò quan trọng nhất trong việc làm cho người đó trở nên khác biệt và họ chỉ là thứ yếu. Trong một nghĩa nào đó, điều này là đúng; tên gọi (tên chính) là tên đại diện cho bản sắc, cái tên được sử dụng nhiều nhất. Còn Họ giúp phân loại nhóm người, trong khi mỗi người có tên gọi riêng của mình. Tuy nhiên, trong danh sách các tên cá nhân, số lượng họ khác nhau sẽ nhiều hơn số lượng tên chính khác nhau. Đó là hệ quả của sự bảo thủ trong việc chọn tên chính; cha mẹ thường chọn những cái tên đã được thiết lập đi thiết lập lại qua từng thế hệ. Một danh sách có thể chứa nhiều người có tên là Michael, Jacob, Elizabeth hoặc Emily, nhưng mỗi người sẽ có một họ khác nhau. Ngoài gia đình, người thân và bạn bè, họ giúp xác định danh tính của mỗi cá nhân một cách rõ ràng hơn so với tên chính (first name).

36.5 Thay đổi tên

Việc thêm họ vào tên trong thời Trung cổ ở châu Âu đại diện cho một loại hình thay đổi tên gọi. Mỗi cá nhân được gán một tên chính thức mới (newly official name), mang lại tư cách mới là người đóng thuế và đồng thời làm rõ nét cá nhân hóa. Dù là loại hình thay đổi tên nào, chúng thường biểu hiện sự thay đổi về tư cách {trạng thái} hoặc vị trí {xã hội}. Khi một người đi qua các giai đoạn của cuộc sống, vị trí của họ trong xã hội cũng thay đổi theo. Một số thay đổi là không thể tránh khỏi, như từ giai đoạn sơ sinh sang trẻ em rồi thành người trưởng thành. Tuy nhiên, những thay đổi này cũng được phủ lên bởi văn hóa, xác định khi nào một giai đoạn kết thúc và giai đoạn khác bắt đầu. Những thay đổi khác cụ thể hơn về mặt xã hội, bao gồm kết hôn, làm cha mẹ, và tiến bộ về vị trí và tư cách trong xã hội, thông qua bất kỳ phương tiện nào. Không phải tất cả sự thay đổi trong điều kiện sống đều xứng đáng để thay đổi tên gọi, nhưng việc thay đổi tên có thể xảy ra trong mọi xã hội. Trong xã hội công nghiệp, việc thay đổi tên phổ biến nhất khi người phụ nữ khi kết hôn sẽ lấy họ của chồng, mặc dù quy ước này đang dần được thay đổi. Cá nhân cũng có thể tự mình thay đổi tên của bản thân theo pháp luật vì nhiều lý do khác nhau. Một trong số đó là không thích tên đó. Một lý do khác liên quan đến việc thăng tiến xã hội, phổ biến trong những người có hoặc muốn trở nên nổi tiếng, ví dụ như các nghệ sĩ biểu diễn. Võ sĩ quyền anh nổi tiếng của Mỹ là Cassius Clay đã đổi tên thành Muhammad Ali khi ông theo Đạo Hồi. Ngôi sao quá cố thuộc dòng phim cao bồi Mỹ John Wayne ban đầu có tên là Marion Morrison. Tuy nhiên, sự thay đổi không nhất thiết phải theo hướng giản lược. Ca sĩ Engelbert Humperdinck ban đầu có tên là Arnold George Dorsey.

Richard Alford (1988: 86) đã chỉ ra trong nghiên cứu xuyên văn hóa (cross-cultural study) về việc đổi tên rằng việc đổi tên thường gặp hơn trong các xã hội nhỏ và ít phức tạp, cũng như trong những xã hội mà mỗi cá nhân thường có tên độc đáo. Sự liên quan này có lý do, bởi vì việc đổi tên ít có khả năng gây ra sự xáo trộn trong xã hội hoặc nhóm họ hàng. Một cái tên được thay thế bằng cái tên khác, và chính việc đổi tên có thể là điểm nổi bật của tình trạng tự miêu tả (self-ascribed) mới. Trong nhiều xã hội quy mô nhỏ, cá nhân có thể đơn giản thông báo rằng họ không muốn được gọi là X mà là Y, và nguyện vọng của họ thường được chấp thuận, trừ khi có xung đột với quy ước văn hóa. Trong suốt cuộc đời một người, việc đổi tên có thể xảy ra vài lần, nhưng trong mỗi trường hợp, cái tên đại diện cho người đó và phục vụ cho mục tiêu xã hội thông qua việc làm rõ cá thể và phân loại thành viên.

Sự thay đổi trong cách xưng hô cũng có thể xảy ra khi một cá nhân trải qua các giai đoạn cuộc sống thông qua việc gán cho họ những biệt danh có tính mô tả hoặc cụm từ thân mật. Những cái sau thường liên quan đến mối quan hệ cá nhân hoặc gần gũi. Biệt danh thường xuất hiện trong các nhóm xã hội đặc biệt, như giữa bạn bè thiếu niên hoặc thành viên của các đội thể thao, phổ biến nhất là trong độ tuổi vị thành niên (xem chương trong tập này của Kennedy). Alford (1988: 82) phát hiện ra rằng biệt danh thường là một trong bốn loại, dựa trên những bất thường về thể chất hoặc hành vi, nghề nghiệp và nơi xuất xứ. Về mặt sử dụng, chúng biểu hiện cho bản sắc nổi lên hoặc đã đạt được, trái ngược với bản sắc được đặt hoặc được chỉ định, do đó bổ sung cho vai trò của tên được chỉ định. Biệt danh có khả năng ít phổ biến hơn tên được đặt và do đó chúng làm nổi bật tính cá nhân ở mức độ lớn hơn và có sức ảnh hưởng xã hội đáng kể.

Nguồn gốc của từ ‘biệt danh’ cho thấy tính bổ sung của nó. Theo Từ điển Oxford Tiếng Anh (trực tuyến), từ ekename ‘tên phụ’ được bắt nguồn từ tiếng Anh cổ eaca ‘sự tăng thêm’, và đã được sử dụng kể từ thế kỷ 14.

36.6 Tóm lược và xem xét thêm về nguồn gốc

Trong cuộc khảo sát này về các phương pháp đặt tên cá nhân, một số điểm chính đã được trình bày. Những điểm này bao gồm:

  • Việc đặt tên cá nhân là một hiện tượng phổ quát. Tất cả các xã hội đều có những cái tên mà thành viên nhận diện như là đặc trưng của xã hội, và tất cả mọi người trong xã hội đều được đặt ít nhất một trong số những cái tên ấy.
  • Hệ thống đặt tên cá nhân có lịch sử bao gồm các thuộc tính xã hội và văn hóa.
  • Tên cá nhân được sử dụng để chỉ dẫn (tham chiếu) và xưng hô, giúp phân biệt các thành viên trong xã hội. Nhằm phân biệt họ với những thành viên khác.
  • Tên cá nhân phân loại cá nhân theo nhiều đơn vị xã hội và văn hóa khác nhau, bao gồm chính xã hội đó, các đơn vị quan hệ gia đình trong xã hội (gia đình, dòng họ, bộ lạc), và trong hầu hết các xã hội bao gồm cả giới tính của người đó.
  • Các thuộc tính văn hóa cốt lõi của hệ thống đặt tên cá nhân có thể thấy qua thực tiễn (phong tục, tập quán) của xã hội trong việc đặt tên ngay từ khi sinh ra hoặc không lâu sau đó.
  • Sự biến thiên văn hóa tồn tại về việc ai có quyền đặt tên khi trẻ mới sinh, và chủ thể gia đình về cơ bản gánh vác trách nhiệm này trong các xã hội công nghiệp hiện đại, trong khi ở các xã hội quy mô nhỏ thường trao quyền này cho ông bà hoặc các chuyên gia đặt tên được công nhận.
  • Tên phù hợp khi sinh có nhiều nguồn gốc khác nhau, tuân theo các ràng buộc của xã hội và quy ước văn hóa, cụ thể là từ các nhóm quan hệ gia đình và một danh sách các tên cá nhân được chấp thuận.
  • Các xã hội có thể được mô tả là có nguồn tên cá nhân tương đối mở hoặc cố định. Trong các hệ thống mở, bất kỳ tên nào được công nhận về mặt văn hóa cũng có thể được đặt cho trẻ em, giống như ở Mỹ, nhưng trong các hệ thống cố định, tên phải được chọn từ danh sách đã được thiết lập từ trước, giống như ở Iceland chẳng hạn.
  • Hệ thống đặt tên mở có quy tắc linh hoạt, nhưng những cái tên được ưa chuộng hoặc được ưu tiên xuất hiện với tần suất cao và có thể ổn định qua nhiều thế hệ.
  • Đặc trưng giới (gender) là đặc điểm xuất hiện phổ biến nhất trong tên cá nhân khi xem xét xuyên văn hóa {tức là đánh giá xem xét nhiều nền văn hóa khác nhau}, với hầu hết mọi xã hội đều phân biệt tên dựa trên cơ sở đó.
  • Trong xã hội Anglo, việc đặt tên nam giới thường bị hạn chế và bảo thủ hơn so với tên nữ giới, có lẽ cho thấy sự ưu tiên cho tính ổn định lớn hơn trong các tên gắn liền với dòng họ và truyền thống.
  • Họ đã xuất hiện ở Châu Âu vào Thời Trung Cổ, cùng với sự gia tăng dân số nhưng đặc biệt là việc ghi chép liên quan đến thuế suất. Những nguồn chính để lựa chọn họ là từ những cái tên miêu tả đã có sẵn, cụ thể là các đặc điểm cá nhân, dòng dõi, quê quán, và nghề nghiệp.
  • Việc thay đổi tên diễn ra trong mọi xã hội nhưng thường xuyên hơn trong các xã hội nhỏ bé, ít phức tạp. Sự thay đổi tên phản ánh sự thay đổi trong trạng thái hoặc vị trí của một người trong cuộc sống.
  • Biệt danh (nicknames) theo nghĩa đen là ‘tên phụ’, thường được gán bởi bạn bè trong các nhóm xã hội khăng khít khi ở tuổi thanh thiếu niên, và có thể làm nổi bật cá tính của một người nhiều hơn so với tên được đặt {tên khai sinh}.

Phần tiếp theo mở rộng cuộc thảo luận về sự cá nhân hóa, tính độc nhất của tên và tên như là hiện thân của nhân cách (persona). Thông tin này được rút ra từ dự án thứ ba của tác giả, tổng hợp và so sánh các tên cá nhân từ những xã hội sơ khai và đơn giản nhất, những người sống sót bằng cách săn bắn hái lượm (foraging), thông thường là qua việc tìm kiếm thức ăn hoang dã, săn bắn và đánh cá.

Ban đầu, có vẻ như hệ thống đặt tên của người hái lượm sẽ không có nhiều điều nói cho chúng ta biết về các hệ thống được tìm thấy trong xã hội công nghiệp. Xã hội sau liên quan đến nhiều yếu tố hơn và phức tạp hơn, giống như các khía cạnh khác của xã hội quy mô lớn. Tuy nhiên, điều ngược lại mới là sự thật. Như trong sinh học, nơi chúng ta có thể học được nhiều điều về các loài phức tạp hiện đại bằng cách tập trung vào những loài sơ khai, ít phức tạp hơn, hệ thống đặt tên của người hái lượm có thể làm sáng tỏ các khía cạnh của việc đặt tên mà có thể khó quan sát trong xã hội hiện đại.

Mẫu khảo sát của các xã hội săn bắn hạn chế chỉ bao gồm những nhóm mà thông tin đủ đầy có sẵn trong tài liệu, và bao gồm các nhóm tồn tại từ cuối thế kỷ 19 cho đến hầu hết thế kỷ 20. Chúng chỉ đại diện cho một tỷ lệ nhỏ của các xã hội săn bắn nếu tính toàn bộ thời kỳ tiền sử, xét rằng săn bắn là lối sống của con người ít nhất trong 100,000 năm, và có lẽ còn lâu dài hơn. Tuy nhiên, mẫu khảo sát của 26 xã hội cho thấy sự tương đồng đáng chú ý, mặc dù chúng đến từ các lục địa khác nhau. Nguồn gốc thực sự của những đặc điểm chung này gần như chắc chắn sẽ không bao giờ được biết, nhưng mức độ tương đồng gợi ý rằng đã có một hệ thống đặt tên ổn định trong khoảng thời gian rất dài.

Mẫu bao gồm một từ Châu Á, một từ Úc, ba từ Châu Phi, bốn từ Nam Mỹ và 17 từ Bắc Mỹ (xem Bảng 36.3).

Bảng 36.3

Các so sánh được thực hiện qua 15 hạng mục, nhưng chỉ có các hạng mục liên quan nhất đến cuộc thảo luận hiện tại được bao gồm ở đây: Tên Gọi Cá Nhân (Identity Names); Sự Phân Biệt Cá Nhân Tối Đa (Maximal Individuation); Đặt Tên Theo Tổ Tiên (Named After Ancestor); Nhiều Tên (Multiple Names); Biệt Danh (Nicknames); Tekyonyms; Cấm Sử Dụng Tên Sau Khi Chết (Name Prohibited after Death); Tên Khi Kết Hôn (Marriage Name); và Họ Gia Đình (Family Name). Việc tính toán của những đặc điểm này theo các xã hội được hiển thị trong Bảng 36.4.

Bảng 36.4

Một số đặc điểm được tìm thấy có mặt trong tất cả các xã hội, mặc dù các đặc điểm khác không được báo cáo trong tài liệu và do đó không thể được tính toán. Một bản thuật lại được cung cấp ngay dưới đây.

  • Tên gọi cá nhân (Identity Name). Trong mọi xã hội, mỗi thành viên của một nhóm (nhóm xã hội) đều có một tên gọi chính được sử dụng để nhận dạng, thông qua việc tham chiếu hoặc xưng hô. Mô hình này vẫn tiếp tục đến thời điểm hiện tại, mặc dù rõ ràng các cá nhân trong xã hội đương đại có nhiều hơn một tên gọi.
  • Sự Phân Biệt Cá Nhân Tối Đa (Maximal Individuation). Đặc điểm này ám chỉ việc mỗi cá nhân trong một nhóm đều có tên riêng biệt. Tên gọi không thể được đặt cho nhiều hơn một người và không có hai người nào có cùng tên gọi. Sự phân biệt cá nhân được tối đa hóa. Có 21 trong số 26 xã hội săn bắt hái lượm đã thể hiện đặc điểm này. Nó không tồn tại trong 3 nhóm xã hội, và không có thông tin cho 2 trường hợp còn lại. Mặc dù bộ sưu tập các tên gọi mà các cá nhân trong xã hội ngày nay được biết đến góp phần vào quá trình phân biệt cá nhân, quá trình này không phải là tối đa.
  • Nhiều Tên Gọi (Multiple Names). Tất cả 26 xã hội đều có tính năng này, nhưng các tên gọi khác là bổ sung cho tên gọi (identity name) của từng cá nhân. Chúng bao gồm biệt danh (nicknames) và teknonym. Teknonym là việc sử dụng thuật ngữ quan hệ để tham chiếu và xưng hô, ví dụ: cha-của-X, con-gái-của-Y. Cùng một khuôn mẫu tồn tại trong xã hội ngày nay (nhưng cần xem thêm hai điểm dưới đây).
  • Biệt danh (Nicknames). Chúng được sử dụng trong tất cả 26 nhóm và có vẻ như là một đặc trưng phổ quát của việc đặt tên.
  • Teknonyms. Việc sử dụng teknonyms xuất hiện trong tất cả các xã hội mà thông tin có sẵn, tổng cộng 15 xã hội. 11 trường hợp không được đề cập trong tài liệu có thể là do chúng ta không nhận ra chúng như là những cái tên. Trong xã hội hiện đại, teknonyms được sử dụng để chỉ người (mẹ của Mary, anh của Bob), mặc dù hiếm khi được sử dụng như hình thức xưng hô.
  • Cấm sử dụng sau khi qua đời (Prohibited after Death). Đặc điểm này ám chỉ một yêu cầu cấm mà có thể sẽ khiến nhiều người đọc cảm thấy lạ lẫm, nhưng nó gần như phổ biến trong các xã hội săn bắt hái lượm. Chỉ có bốn trong số 26 xã hội săn bắt hái lượm không được báo cáo có đặc điểm này. ‘Cấm sử dụng sau khi qua đời’ có nghĩa là tên của người đã khuất không được phép sử dụng để tham chiếu {tức là không được đặt tên đó cho người khác}, mãi mãi. Việc sử dụng tên sẽ được coi là một vi phạm nghiêm trọng, thậm chí nguy hiểm đối với quy ước xã hội. Lý giải cho điều này là việc sử dụng tên gọi của người đó, giống như là gọi hồn người đã không còn sống. Đây là một trong những quy tắc mạnh mẽ hàng đầu, nếu không muốn nói là mạnh mẽ nhất, về sự đồng nhất giữa tên và con người. Lệnh cấm này rất mạnh đến nỗi ở một số bộ lạc, những từ có âm tương tự và gợi nhớ đến tên cũng không được phép sử dụng nữa. Phải sử dụng cách diễn đạt khác hoặc thay thế từ mới, hoặc phải thay đổi cách phát âm của từ để giảm bớt sự giống nhau với tên thực sự. Ở Trukese thuộc Nam Thái Bình Dương, nếu tên của người đã khuất giống với từ chỉ vật dụng thông thường, vật dụng đó phải được đặt tên mới sau cái chết của người mang tên đó (Alford 1988: 116). Người Guarani ở Paraguay giao trách nhiệm phát minh ra các tên thay thế cho phụ nữ cao tuổi. Trong cuốn sách của ông về ‘phép thuật’ của tên gọi, Edward Clodd (1968) đã ghi chú rằng từ vựng của Guarani chỉ đến một giống ‘báo’ đã phải thay đổi ba lần trong bảy năm. Do đó, các hạn chế và điều cấm kỵ về tên có thể trở thành nguyên nhân quan trọng của sự thay đổi từ vựng. Lệnh cấm sử dụng tên của người đã khuất đã không còn trong các hệ thống đặt tên hiện đại, có lẽ do việc giảm thiểu tính cá nhân hóa, tính không duy nhất của hầu hết các tên riêng và mối liên kết của tên với tài sản (Alford 1988: 117).
  • Hạn chế về Sử dụng (Constraints on Usage). Tất cả 26 xã hội đều có sự xuất hiện của đặc điểm này. Mục đích là tránh sử dụng tên gọi cá nhân, đặc biệt khi xưng hô. Như trong lệnh cấm sử dụng sau cái chết, việc sử dụng tên của một người gọi hồn người đó—một quyền tự do xã hội bị tránh né, trừ khi có mối quan hệ thân thiết với người đó. Việc sử dụng tên là quá nguy hiểm; đó là bản sắc cá nhân, chỉ được gọi một cách cẩn thận. Điều này có nghĩa là các teknonyms thường được sử dụng, bởi chúng được coi là kính ngữ, nêu bật mối quan hệ huyết thống so với chủ nghĩa cá nhân. Việc tránh sử dụng tên gọi cá nhân trong xã hội là phổ biến ở các xã hội quy mô nhỏ. Trong các xã hội nói tiếng Anh, việc sử dụng tên gọi đầu tiên chỉ phù hợp về mặt xã hội khi đã có lời giới thiệu phù hợp (một ‘bí tích / baptism’, theo thuật ngữ của Kripke, 1972). Có vẻ như có thể nói rằng việc tránh né này vẫn tồn tại trong tất cả các xã hội, nhưng có thể áp dụng một quy tắc loại trừ, một lời giới thiệu loại bỏ ràng buộc ấy.

Bức tranh hiện lên cho thấy việc cá nhân hóa (individuation) là một đặc trưng của hệ thống đặt tên cá nhân ngay từ ban đầu, nhưng nó không chỉ đơn giản là sự phân biệt một thành viên trong nhóm với người khác. Thay vào đó, nó được xem xét nghiêm túc, đến mức mà mọi người cố gắng tránh sử dụng tên, bởi vì việc sử dụng tên có thể kiểm soát người mang tên đó. Ngoài ra, tên không thể được sử dụng sau khi người mang tên qua đời, vì lý do tương tự: nghĩa là nó gợi lên nhân cách và do đó là con người. Biệt danh cũng phổ biến ở các xã hội săn bắt hái lượm, nhưng giống như tên gọi cá nhân, chúng được bao quanh bởi những quy tắc hành vi mạnh mẽ điều chỉnh việc sử dụng. Tên gọi theo cha mẹ (teknonyms) rất phổ biến và chắc chắn đã làm giảm bớt gánh nặng xã hội trong việc tham chiếu và xưng hô trong bối cảnh có các lệnh cấm và tránh né. Ngoại trừ việc cấm sử dụng tên của người đã khuất và việc sử dụng teknonyms, tất cả các tính chất này vẫn tồn tại trong xã hội ngày nay, mặc dù đã được nới lỏng về ràng buộc và giảm bớt tính quan trọng xã hội.

Cuối cùng, nếu đặc điểm Đổi Tên khi Kết Hôn / Marriage Name (thay đổi tên khi kết hôn), Họ Gia Đình, và khi xem xét đến các Danh hiệu và Tên gọi, tất cả đều không xuất hiện trong 26 xã hội được nêu (Bảng 36.4), có một lý do chính đáng cho sự xuất hiện của chúng trong những xã hội công nghệ cao hơn. Sự hiện diện của những đặc điểm này là dấu hiệu cho thấy tầm quan trọng của gia đình và họ tên gia đình (family names) trong các hệ thống xã hội và kinh tế nhấn mạnh đến tài sản, quyền sở hữu tài sản và của cải liên quan. Việc tối đa hóa tên cá nhân (maximally individuating names) và liên kết/đánh đồng chúng với cá nhân đã được giảm bớt để phù hợp với những mối quan tâm mới này. Việc giới thiệu họ gia đình đã phần nào chuyển sự cân nhắc từ việc phân biệt cá nhân sang phân loại.

(Bản gốc tiếng Anh: Personal Names, của tác giả Ben Blount, University of Georgia)

Ghi chú: tài liệu dịch, có thể có bản quyền.